Hoàng đế nhà Hán Hán_Hiến_Đế

Quyền thần Đổng Trác

Đổng Trác cải niên hiệu Trung Bình của Linh Đế mà Thiếu Đế đang dùng thành niên hiệu Sơ Bình năm đầu của Hán Hiến Đế vào năm sau (190). Vì việc Đổng Trác phế vua thao túng triều đình, các chư hầu do Viên Thiệu cầm đầu nổi dậy đánh Đổng Trác.

Cánh quân của Tôn Kiên đánh Nam Dương rồi từ đây tiến vào Lạc Dương. Đổng Trác bị thua 2 trận, sợ hãi đốt bỏ Lạc Dương và mang vua Hiến Đế cùng triều đình chạy sang phía tây về kinh đô cũ ở Trường An. Quân chư hầu sau đó chia rẽ, kéo bè phái đánh nhau, nên Đổng Trác không bị đe dọa ở Trường An.

Hán Hiến Đế muốn quay trở về đông đô Lạc Dương, nhân có Thị trung Lưu Hòa là con trai châu mục U châu Lưu Ngu (người tông thất) có thế lực, bèn sai Lưu Hòa cải trang trốn thoát khỏi Trường An, định tìm đến U châu gọi Lưu Ngu về hộ giá. Nhưng Lưu Hòa ra khỏi Quan Trung tới Nam Dương thì bị sứ quân Viên Thuật giữ lại, sau đó lưu lạc nhiều ngày lại bị Viên Thiệu bắt giữ. Các sứ quân lúc đó vì mục tiêu lợi dụng Lưu Ngu giúp mình để chống đối lẫn nhau nên cha con Lưu Ngu không giúp được Hiến Đế[19].

Năm 192, trong lúc chư hầu đang xung đột ở phía đông thì trong triều đình Trường An, Tư đồ Vương Doãn đồng mưu với Lã Bố giết chết Đổng Trác. Hán Hiến Đế bèn phong Vương Doãn làm Lục thượng thư sự, Lã Bố làm Ôn hầu, Phấn uy tướng quân, Nghi đồng tam tư. Theo ý kiến của Vương Doãn, Hiến Đế lại phong Hoàng Phủ Tung làm Chinh tây tướng quân, phái tới My Ổ là chỗ ở của Đổng Trác để tịch biên gia sản. Kết quả Hoàng Phủ Tung thu về được hơn 2 vạn cân vàng, hơn 8.000 cân bạc cùng các của cải khác chất cao như núi[20].

Phản loạn Lý Thôi

Vương Doãn sai Lã Bố đi đánh dẹp con rể Đổng TrácNgưu Phụ. Ngưu Phụ bị thủ hạ giết. Bộ tướng của Ngưu Phụ là Lý Thôi, Quách Dĩ, Phàn TrùTrương Tế cầu khẩn Vương Doãn tha tội theo Đổng Trác. Vương Doãn không đồng ý xá tội cho Lý và Quách. Lý Thôi, Quách Dĩ bèn cất quân Lương Châu nổi dậy báo thù, quân tập hợp dần dần được hơn 10 vạn, tấn công Trường An.

Lã Bố chống không nổi quân Lương châu, bỏ chạy về phía đông. Lý Thôi vào Trường An bắt giết cả nhà Vương Doãn. Từ đó Hiến Đế lại bị Lý Thôi và Quách Dĩ khống chế. Ông dựa vào các lão thần như Triệu Khiêm, Dương Bưu, Hoàng Phủ Tung, Mã Nhật Đê, Triệu Trung, Chu Tuấn kiềm chế một phần uy thế của Lý và Quách. Ông phong cho Lý Thôi làm Tư Lệ hiệu úy.

Tháng 9 năm 193, Lý Thôi tiến thêm một bước, ép Hiến Đế phong cho làm Xa kỵ tướng quân, chức chỉ đứng sau Đại tướng quân. Trên thực tế đây là chức lớn nhất vì chức Đại tướng quân để trống, không ai giữ lúc đó[21]. Hiến Đế còn bị ép phong Quách Dĩ làm Hậu tướng quân, Phàn Trù làm Hữu tướng quân. Cả ba người cùng nhau lập phủ trong kinh thành, cùng nhau đoạt quyền điều hành triều chính, các quan Tam công lão thần bị vô hiệu hóa. Một tướng khác là Trương Tế đóng quân ở Thiểm huyện, ngoài kinh thành.

Ba người nảy sinh mâu thuẫn. Năm 194, Lý Thôi giết chết Phàn Trù. Không lâu sau cả Lý Thôi và Quách Dĩ cùng muốn một mình làm chủ triều đình nên trở mặt đánh nhau. Hai bên đánh nhau trong nhiều ngày, kinh thành bị tàn phá, hàng vạn người bị chết[22].

Hán Hiến Đế và Phục hoàng hậu bị Lý Thôi kéo từ trong cung mang vào doanh trại giam lỏng. Các đại thần cầm đầu là Dương Bưu theo hầu. Hiến Đế sai Dương Bưu cùng Trương Hỷ và Chu Tuấn, tất cả hơn 10 người sang doanh trại Quách Dĩ đề nghị hai bên nên giảng hòa không nên đổ máu. Những người này liền bị Quách Dĩ bắt giữ.

Để lấy lòng Lý Thôi và Quách Dĩ, Hiến Đế phải phong cho Lý Thôi làm Đại tư mã, Quách Dĩ làm Xa kỵ tướng quân. Nhưng hai người nhận chức xong vẫn không chịu bãi binh.

Giữa lúc đó Trương Tế kéo về kinh thành giảng hòa hai người và khuyên Lý, Quách hãy để Hiến Đế rời Quan Trung về quận Hoằng Nông. Hiến Đế khi đó lên 15 tuổi, cũng sai người đi xin Lý Thôi cho mình rời khỏi doanh trại về Hoằng Nông. Sau hơn 10 lần sứ giả đi lại, Lý Thôi mới đồng ý[23].

Chạy về phía Đông

Tháng 7 năm 195, Hán Hiến Đế cùng công khanh từ doanh Bắc Ổ của Lý Thôi (ngoài thành Trường An) lên đường. Các tướng Đổng Thừa, Dương Phụng đi theo hộ giá. Trương Tế thu xếp xong việc, rút quân về Thiểm huyện. Dương Phụng và Đổng Thừa mời thêm Dương Định là tướng Khăn Vàng cũ, đang là bộ tướng của Lý Thôi nhưng không bằng lòng với Lý Thôi, cùng nhau hộ giá Hiến Đế.

Tháng 8, Hiến Đế đến Tân Phong. Quách Dĩ hối hận muốn cướp lại Hiến Đế, bèn mang quân đuổi theo. Dương Phụng và Dương Định cùng ra đón đánh, đánh bại quân Quách Dĩ.

Quách Dĩ thua chạy về Trường An, sai người hòa giải với Lý Thôi và lôi kéo Trương Tế cùng liên minh đánh Dương Phụng và Dương Định để cướp lại Hiến Đế, khống chế chư hầu như trước.

Tháng 11 năm đó, Hiến Đế đến gần Đông Giản quận Hoằng Nông thì bị quân Lý Thôi và Quách Dĩ đuổi theo kịp. Lần này Dương Phụng và Dương Định không chống nổi, khiến nhiều đại thần bị chết, trong đó có thị trung Chu Triển, Binh bộ hiệu úy Ngụy Kiệt, Xạ thanh hiệu úy Thư Thuyên. Các tướng mang vua Hiến Đế tháo chạy.

Trước tình hình nguy cấp, Dương Phụng một mặt xin tạm hòa với Lý Thôi để hoãn binh, mặt khác bàn với Đổng Thừa mời thủ lĩnh quân cướp Bạch Ba là Lý Nhạc, Hàn Tiêm ở Sơn Tây cùng Tả Hiền vương Hung Nô là Tố Khứ Ty phía nam Quy Hóa cứu giá. Cánh quân Lý Nhạc, Hàn Tiêm và Tố Khứ Ty tập hợp cùng Dương Phụng, đánh bại Lý Thôi và Quách Dĩ. Đổng Thừa nhân lúc thắng trận, tới vùng phụ cận thuộc bến đò Mao Tân đưa Hiến đế cùng Phục hoàng hậu và một số tùy tùng qua sông Hoàng Hà, tới An Ấp thuộc quận Hà Đông nghỉ lại.

Ở Lạc Dương

Xem thêm: Trương Dương

Thái thú Hà Đông là Vương Ấp và thái thú Hà NộiTrương Dương đều tỏ ý sẵn sàng nghênh giá giúp Hiến Đế.

Trương Dương lại sai người đến Lạc Dương sửa sang cung điện bị Đổng Trác đốt phá. Đến tháng 7 năm 196, Hiến Đế từ An Ấp đến Lạc Dương. Thành trì điêu tàn, ngoài Hiến Đế, rất ít quan lại tìm được nơi ở. Các quan lại phải tự đi tìm hái rau, đẵn cây làm củi[24].

Trương Dương và Vương Ấp không muốn bon chen ở triều đình để tranh chức quyền nên sau khi giúp Hiến Đế tới được Lạc Dương, hai người trở về bản địa Hà Đông và Hà Nội. Dương Phụng cũng không muốn tranh chấp, rút quân về Khai Phong.

Ở Lạc Dương chỉ còn Đổng Thừa và Hàn Tiêm bên cạnh Hiến Đế. Hàn Tiêm có công hộ giá, tỏ ra cậy quyền, lấn ép các đại thần. Để thưởng công các tướng, Hán Hiến Đế phong Hàn Tiêm làm Đại tướng quân, lĩnh ấn Tư lệ hiệu úy, được cầm tiết việt; Đổng Thừa làm Vệ tướng quân, Dương Phụng làm Xa kỵ tướng quân, Trương Dương làm Đại tư mã.

Vệ tướng quân Đổng Thừa không muốn để Hàn Tiêm hoành hành, bèn bí mật sai người đi triệu Tào Tháo đang có binh hùng tướng mạnh ở Duyện châu đến hộ giá.

Vào tay Tào Tháo

Bài chi tiết: Tào Tháo

Tào Tháo khởi đại quân từ Duyện châu tới Lạc Dương, nhờ lực lượng quân sự hùng hậu, nhanh chóng đánh tan lực lượng của Hàn Tiêm. Tiêm thua trận bỏ chạy.

Do Lạc Dương bị tàn phá nặng nề, tháng 9 năm 196, Tào Tháo mang Hán Hiến Đế về Hứa Xương. Trong các đại thần có Đổng Thừa vẫn tiếp tục hộ giá. Dương Phụng từ Khai Phong mang quân tới đánh Tào Tháo để tranh lấy vua Hiến Đế nhưng bị Tào Tháo đánh bại.

Tháng 10 năm đó, Hán Hiến Đế đến Hứa Xương. Tào Tháo xong việc bèn quay trở lại Khai Phong đánh Dương Phụng. Phụng thua trận chạy về Dương châu theo Viên Thuật. Tào Tháo chiếm giữ Khai Phong.

Hán Hiến Đế đến Hứa Xương, phong Tào Tháo làm Vũ Bình hầu, giữ chức Tư không kiêm Hành Xa kỵ tướng quân[25]. Hiến Đế vốn muốn phong cho Tào Tháo chức cao hơn là Đại tướng quân nhưng vì Tào Tháo còn e ngại thế lực của Viên Thiệu, muốn tránh xung đột ngay với Thiệu, vì vậy đề nghị Hiến Đế phong chức Đại tướng quân cho Thiệu[26].

Từ đó những việc lớn nhỏ trong triều đình nhà Hán đều do Tào Tháo quyết định. Nhiều mệnh lệnh được soạn thảo và ban ra từ phủ Tư không của Tào Tháo. Do tự mình chuyên quyết việc triều đình, Tào Tháo tiếp tục gặp phải sự chống đối ngấm ngầm từ các lực lượng ủng hộ Hán Hiến Đế. Năm 199, Đổng Thừa không bằng lòng sự chuyên quyền của Tào Tháo, mưu cùng Chung Tập, Ngô Thạc, Vương Phục và Lưu Bị mưu giết Tào Tháo. Khi mưu chưa phát lộ, Lưu Bị xin đi đánh Viên Thuật. Khi Lưu Bị đánh thắng Viên Thuật bèn chiếm Từ châu, ly khai Tào Tháo. Mưu lật đổ Tào Tháo của Đổng Thừa cũng bị phát giác. Tào Tháo giết hết cả nhà những người tham gia mưu sự cùng cả Đổng quý nhân là em gái Đổng Thừa, khi đó đang mang thai 5 tháng.

Tào Tháo nhân danh thiên tử Hán Hiến Đế ra lệnh sai khiến chư hầu. Bằng tài năng chính trị và quân sự, dần dần Tào Tháo với danh nghĩa "giúp nhà Hán" đã tiêu diệt các thế lực chư hầu cát cứ như Lã Bố (198), Viên Thuật (199), Viên Thiệu (200-207), Lưu Biểu (208), Mã SiêuHàn Toại (212), Trương Lỗ (215). Trong vòng gần 20 năm, Tào Tháo làm chủ trung nguyên, chiếm phần lớn nhất và có thế lực mạnh nhất trong các chư hầu. Còn hai lực lượng của Tôn Quyền ở Giang Đông và Lưu Bị ở Tây Xuyên, Tào Tháo không thể tiêu diệt, phải cùng nhau chia ba thiên hạ.

Năm 213, Tào Tháo mang 3 người con gái gả cho Hiến Đế làm quý nhân. Nhân Phục Hoàn là cha Phục hoàng hậu lại tham dự âm mưu lật đổ Tào Tháo, Tào Tháo biết được bèn giết Phục Hoàn và tìm giết Phục hậu. Hán Hiến Đế sai người giấu Phục hậu, nhưng cuối cùng vẫn bị thủ hạ của Tào Tháo tìm ra. Khi bị quân Tào Tháo lôi đi, Phục hậu kéo tay Hiến Đế cầu cứu, Hiến Đế đau lòng nói:"Bản thân ta còn chưa biết sẽ chết ngày nào mà"[27]. Giết Phục hậu xong, Tào Tháo ép ông lập con gái mình là Tào Tiết làm Hoàng hậu mới.

Cùng năm, Tào Tháo ép Hiến Đế phong mình làm Ngụy công, ban cho Cửu tích gồm: xe ngựa, y phục, nhà son, đội nhạc, nạp bệ, cung tên, hổ bôn, việt vàng. Tào Tháo cắt Ngụy quận và 9 quận khác ở Ký châu vào lãnh thổ nước Ngụy làm đất ăn lộc. Nước Ngụy của Tào Tháo với tư cách là một nước chư hầu nằm trong lãnh thổ nhà Hán bắt đầu hình thành.

Năm 216, sau khi đánh bại Trương Lỗ trở về, Tào Tháo sai Hoa Hâm chuẩn bị và ép Hán Hiến Đế ra chiếu phong mình làm Ngụy Vương, rồi lập con thứ hai là Tào Phi làm thế tử.

Nhường ngôi cho Tào Phi

Đầu năm 220, Tào Tháo mất. Tào Phi lên thay làm Ngụy vương. Đối với việc Tào Tháo không cướp ngôi nhà Hán, Tư Mã Quang trong "Tư trị thông giám" cho rằng[27]:

Tào Tháo hung bạo mạnh mẽ, lại là người có công với thiên hạ, trong lòng ông ta đã không có hoàng đế từ lâu…, không phải ông ta không có tham vọng đó. Chính vì ông ta sợ danh nghĩa chưa ổn, nên mới tự ức chế đó thôi.

— Tư Mã Quang

Để chuẩn bị cướp ngôi nhà Hán, Tào Phi sai thủ hạ dựng ra những lời sấm ngữ để tạo dư luận trong nước thuận theo, như "hết Hán tới Ngụy", "nhà Hán sau 24 đời thì hết", hoặc những câu dùng phép chiết tự ra tên Tào Phi sẽ làm thiên tử[28].

Sau đó các đại thần trong triều cùng nhau khuyên Tào Phi thay ngôi nhà Hán.

Đầu tháng 10 năm 220, Hán Hiến Đế biết mình không thể giữ ngôi vua nữa, ông bèn xuống chiếu nhường ngôi cho Tào Phi. Để tỏ ra khiêm nhường, ngày 18 tháng 10, Tào Phi dâng thư từ chối.

Ngày 20 tháng 10 năm đó, Hiến Đế lại xuống chiếu thư nhường ngôi lần thứ hai. Ngày 22 tháng 10, Tào Phi lại dâng thư từ chối, trả lại ấn hoàng đế.

Ngày 24 tháng 10, Hán Hiến Đế xuống chiếu nhường ngôi lần thứ 3, ra lệnh cho sứ giả Trương Âm không được phép mang ấn hoàng đế trả lại nữa. Ngày 26 tháng 10, Tào Phi cố từ chối cho đủ 3 lần[29].

Ngày 28 tháng 10, Hán Hiến Đế ra chiếu thư nhường ngôi lần thứ tư. Lần này Tào Phi không từ chối nữa. Ngày hôm sau 29 tháng 10, Tào Phi bước lên đài cao ở Phồn Dương để nhận nhường ngôi của Hiến Đế, trở thành vua Ngụy Văn Đế.

Hán Hiến Đế ở ngôi tất cả 31 năm (189-220), bị phế làm Sơn Dương công - chư hầu của nhà Tào Ngụy - về ở quận Sơn Dương, hưởng lộc 1 vạn hộ. Nhà Đông Hán chính thức chấm dứt từ đó.